Diễn biến tình hình và xu hướng phát triển thị trường mặt hàng sắn và các sản phẩm từ sắn của tỉnh Tây Ninh tháng 4 năm 2025

Thứ sáu - 06/06/2025 07:55 22 0
Diễn biến tình hình và xu hướng phát triển thị trường mặt hàng sắn và các sản phẩm từ sắn của tỉnh Tây Ninh tháng 4 năm 2025
Hiện đã là cuối vụ 2024 - 2025, nhiều nhà máy chế biến trên cả nước đã tạm dừng hoạt động, chỉ còn một số đơn vị duy trì sản xuất cầm chừng để thu mua nốt lượng củ sắn tươi còn lại trong khu vực. Trong bối cảnh nguồn cung giảm, giá tinh bột sắn và sắn lát Việt Nam đang có xu hướng tăng trở lại.
Theo các doanh nghiệp trong ngành, lượng tinh bột sắn tồn kho hiện nay dự báo đủ để cung ứng cho thị trường đến khi vụ mới 2025 - 2026 bắt đầu. Tuy nhiên, do sản lượng sắn nguyên liệu đã cạn dần, giá chào bán tinh bột sắn đã được điều chỉnh tăng. Tình trạng này đang thúc đẩy nhiều khách hàng Trung Quốc đẩy mạnh giao dịch và đặt mua số lượng lớn.
Mặc dù nhu cầu tăng, các nhà máy Việt Nam vẫn tỏ ra thận trọng khi chỉ ký kết các đơn hàng phù hợp với năng lực giao hàng. Các hợp đồng có thời gian giao kéo dài thường được yêu cầu thanh toán bằng L/C không hủy ngang nhằm phòng tránh rủi ro từ phía người mua.
Trong khi đó, giá sắn lát trong nước và xuất khẩu cũng đang trên đà tăng mạnh. Nguồn cung sắn lát mới gần như không còn, do đã về cuối vụ. Nhiều nhà máy cồn và sản xuất thức ăn chăn nuôi đang đẩy mạnh mua sắn lát dự trữ do giá cám gạo tăng và nguồn bã sắn khô khan hiếm.
Việc phối trộn sắn lát làm nguyên liệu đang được ưu tiên, trong khi lượng sắn lát tồn kho từ vụ này đang được lên kế hoạch bán dàn trải cho đến đầu vụ tới.
Theo các đơn vị kinh doanh sắn lát, mặt bằng giá của vụ 2024 - 2025 được nhận định là đã ở mức đáy và khó giảm sâu hơn. Điều này càng củng cố xu hướng tăng giá nhẹ hiện nay khi cả cung và cầu đều đang dịch chuyển theo hướng bất lợi cho người mua.
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hiện cả nước có trên 40 tỉnh, thành trồng sắn, tập trung ở 5 vùng trọng điểm chính gồm Trung du miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ với diện tích 520.000-550.000ha, năng suất đạt 19-20 tấn/ha, sản lượng đạt trên 10 triệu tấn củ tươi.
Về chế biến, hiện cả nước có khoảng trên 140 nhà máy chế biến tinh bột sắn, với tổng công suất thiết kế 13,4 triệu tấn củ tươi/năm, tổng công suất thực tế 9,3 triệu tấn/năm. Các nhà máy phân bố chủ yếu ở vùng Đông Nam Bộ với khoảng trên 70 nhà máy.
Tây Ninh hiện có diện tích vùng nguyên liệu sắn hơn 62.020 ha, năng suất bình quân 33,7 tấn/ha, sản lượng trên 2,1 triệu tấn. Thời gian qua, người trồng sắn trên địa bàn tỉnh đã áp dụng cơ giới hóa đồng bộ từ khâu trồng đến khâu thu hoạch, sử dụng các giống khoai sắn không bị bệnh khảm lá giúp tăng năng suất, chất lượng. Hiện trên địa bàn tỉnh có 64 nhà máy chế biến sắn (chiếm 45,8% so với cả nước) với tổng công suất 6,4 triệu tấn củ/năm; trong đó có 8 nhà máy chế biến sâu, gồm 6 nhà máy sản xuất tinh bột biến tính và 2 nhà máy sản xuất mạch nha.
Về giá cả: Giá sắn lát và tinh bột sắn của Việt Nam ghi nhận xu hướng tăng trong tháng 5/2025, phản ánh tình trạng nguồn cung suy giảm khi vụ thu hoạch sắn 2024–2025 đã kết thúc tại nhiều địa phương.
Theo Hiệp hội sắn Việt Nam, giá sắn lát xuất khẩu sang Trung Quốc hiện dao động ở mức 200 USD/tấn FOB cảng Quy Nhơn, tăng 5 USD/tấn so với cuối tháng 4/2025. Trong khi đó, thị trường Hàn Quốc ghi nhận mức giá khoảng 265 USD/tấn FOB Quy Nhơn, cũng tăng 5 USD/tấn.
Giá tinh bột sắn cũng đang trong xu thế tăng rõ rệt. Giá tinh bột sắn được các nhà máy Việt Nam chào bán khoảng 380-390 USD/tấn FOB cảng thành phố Hồ Chí Minh, tăng 15 USD/tấn so với cuối tháng trước. Đáng chú ý, tại cửa khẩu Móng Cái và Lạng Sơn – hai điểm giao thương chủ lực với Trung Quốc – giá giao dịch tinh bột sắn đã tăng lên 2.730–2.850 CNY/tấn, tăng 30 CNY/tấn so với cuối tháng 4/2025.
Nguyên nhân chính của đợt tăng giá lần này là do vụ thu hoạch sắn cũ đã kết thúc tại miền Bắc, trong khi sản lượng dự báo cho vụ mới không mấy khả quan. Nguồn cung hạn chế đã khiến các doanh nghiệp đẩy giá chào bán lên, trong khi nhu cầu từ Trung Quốc vẫn duy trì ở mức cao, đặc biệt là đối với các hợp đồng giao hàng ngắn hạn.
Việc giá sắn và các sản phẩm từ sắn tăng trong bối cảnh cuối vụ không chỉ phản ánh áp lực cung - cầu trên thị trường, mà còn thể hiện tâm lý thận trọng của các nhà máy chế biến và xuất khẩu Việt Nam trong việc quản lý hàng tồn kho và rủi ro thương mại.
Theo số liệu thống kê của Cục Hải quan Việt Nam, tháng 4/2025, Việt Nam xuất khẩu được 391,42 nghìn tấn sắn và các sản phẩm từ sắn, với trị giá 112,88 triệu USD, giảm 19,7% về lượng và giảm 18,9% về trị giá so với tháng 3/2025; Tuy nhiên so với tháng 4/2024 tăng tới 113,5% về lượng và tăng 40% về trị giá.
Lũy kế 4 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn đạt trên 1,6 triệu tấn, trị giá 485,76 triệu USD, tăng 42,3% về lượng, nhưng giảm 4,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024. Nguyên nhân chính là do giá xuất khẩu bình quân giảm mạnh so với năm trước. Mặc dù sản lượng xuất khẩu sắn tiếp tục duy trì đà tăng trưởng tích cực, nhưng giá xuất khẩu giảm sâu đang ảnh hưởng đáng kể tới trị giá xuất khẩu. Điều này phản ánh xu hướng giá yếu trên thị trường toàn cầu.
Tính riêng mặt hàng sắn, tháng 4/2025, xuất khẩu sắn đạt 136,93 nghìn tấn, trị giá 25,76 triệu USD, giảm 32,1% về lượng và giảm 32,5% về trị giá so với tháng 3/2025; Tuy nhiên so với tháng 4/2024 tăng tới 146,1% về lượng và tăng 75,8% về trị giá. Giá xuất khẩu bình quân ở mức 188,2 USD/tấn, giảm 0,6% so với tháng 3/2025 và giảm 28,5% so với tháng 4/2024. Lũy kế 4 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu sắn đạt 513,1 nghìn tấn, trị giá 97,78 triệu USD, tăng 86,6% về lượng và tăng 38,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024.
Kết quả này cho thấy nhu cầu sắn vẫn đang duy trì tích cực, đặc biệt từ các thị trường như Trung Quốc, bất chấp những biến động về giá và nguồn cung trong ngắn hạn.
Giá xuất khẩu bình quân sắn và các sản phẩm từ sắn liên tục giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước.
Tháng 4/2025, giá xuất khẩu bình quân sắn và các sản phẩm từ sắn đạt mức 288,4 USD/tấn, tăng 1% so với tháng 3/2025, nhưng vẫn giảm 34,5% so với tháng 4/2024.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2025, giá xuất khẩu bình quân sắn và các sảnphẩm từ sắn đạt mức 303,1 USD/tấn, giảm 33,1% so với cùng kỳ năm 2024.
Mức giá này phản ánh diễn biến cạnh tranh trên thị trường quốc tế và ảnh hưởng từ nguồn cung tồn kho cuối vụ.
Trong tháng 4/2025, Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn lớn nhất của Việt Nam, chiếm 95,19% tổng lượng sắn xuất khẩu của cả nước, đạt 372,6 nghìn tấn, trị giá 105,07 triệu USD, giảm 20% về lượng và giảm 19,1% về trị giá so với tháng 3/2025; Tuy nhiên so với tháng 4/2024 tăng tới 125,1% về lượng và tăng 47,7% về trị giá.
Giá xuất khẩu bình quân sang Trung Quốc trong tháng 4/2025 đạt 282 USD/tấn, tăng nhẹ 1,1% so với tháng trước, nhưng vẫn thấp hơn 34,4% so với cùng kỳ năm ngoái, cho thấy giá thị trường vẫn chịu áp lực giảm.
Tính chung, 4 tháng đầu năm 2025, Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc 1,53 triệu tấn sắn và các sản phẩm từ sắn, với trị giá 454,55 triệu USD, tăng 45,2% về lượng, nhưng giảm 3,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024.
Bên cạnh Trung Quốc, các thị trường như Nhật Bản và Đài Loan cũng gia tăng nhập khẩu sắn từ Việt Nam trong tháng 4/2025. Đáng chú ý, xuất khẩu sang Nhật Bản tăng đột biến, với mức tăng 1.265% về lượng và tăng 1.175% về trị giá so với tháng 4/2024. Trong khi đó, xuất khẩu sang các thị trường như: Philippin, Malaysia và Hàn Quốc lại sụt giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2024.
Nhìn chung, trong 4 tháng đầu năm 2025, lượng sắn và các sản phẩm từ sắn xuất khẩu sang các thị trường lớn đều tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2024 như: Trung Quốc tăng 45,2%; Malaysia tăng 70,4%; Philippin tăng 8%; Nhật Bản tăng 666,9%...; trong khi xuất khẩu sang Đài Loan, Hàn Quốc tiếp tục giảm.
Trong tháng 4/2025, các chủng loại sắn và các sản phẩm từ sắn xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu tinh bột sắn, sắn lát khô và củ sắn tươi đã qua chế biến.
Trong đó, lượng và trị giá xuất khẩu tinh bột sắn và sắn lát khô của Việt Nam đều tăng trưởng tốt so với cùng kỳ năm 2024. Tuy nhiên, giá xuất khẩu bình quân tiếp tục giảm sâu, ảnh hưởng đến tổng trị giá xuất khẩu.
+ Tinh bột sắn:
Tháng 4/2025, tinh bột sắn được xuất khẩu nhiều nhất với 254,41 nghìn tấn, trị giá 87,06 triệu USD, tăng 99,6% về lượng và tăng 32,1% về trị giá so với tháng 4/2024.
Lũy kế 4 tháng đầu năm 2025, Việt Nam xuất khẩu được 1,08 triệu tấn tinh bột sắn, trị giá 387,63 triệu USD, tăng 28,3% về lượng, nhưng giảm 11,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024, chủ yếu được xuất khẩu sang Trung Quốc, thị trường Đài Loan, Philipine, Malaysia, Nhật Bản, Angiêri, Papua New Guinea…
- Về giá xuất khẩu:
Giá xuất khẩu bình quân tinh bột sắn trong tháng 4/2025 ở mức 342,2 USD/tấn, giảm 31,1% so với tháng 4/2024.
Nhìn chung, giá xuất khẩu bình quân tinh bột sắn sang các thị trường đều giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2024. Lũy kế 4 tháng đầu năm 2025, giá xuất khẩu bình quân tinh bột sắn ở mức 356 USD/tấn, giảm 31% so với cùng kỳ năm 2024.
- Về thị trường xuất khẩu:
Tháng 4/2025, tinh bột sắn được xuất khẩu sang 35 thị trường trên thế giới. Trong đó, Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu tinh bột sắn lớn nhất của Việt Nam, với 236,07 nghìn tấn, trị giá 79,73 triệu USD, tăng tới 109,5% về lượng và tăng 38,2% về trị giá so với tháng 4/2024.
Lũy kế 4 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu tinh bột sắn sang Trung Quốc đạt gần 1,02 triệu tấn, trị giá 358,04 triệu USD, tăng 29,5% về lượng, nhưng giảm 11,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024. Xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm 93,6% tổng lượng tinh bột sắn xuất khẩu của cả nước trong 4 tháng đầu năm 2025.
Ngoài ra, trong tháng 4/2025, xuất khẩu tinh bột sắn sang Nhật Bản, UAE, Mỹ ghi nhận mức tăng trưởng đột biến về lượng: Nhật Bản: tăng tới 31.920%; UAE tăng 5.600%; Mỹ tăng 231% so với tháng 4/2024.
Tuy nhiên một số thị trường vẫn giảm mạnh như: Indonesia, Australia, Tây Ban Nha, Philippin, Malaysia, Hàn Quốc…
Sắn lát khô:
Tháng 4/2025, Việt Nam xuất khẩu được 136,28 nghìn tấn sắn lát khô, trị giá 25,29 triệu USD, tăng 146,1% về lượng và tăng 77,3% về trị giá so với tháng 4/2024.
Lũy kế 4 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu sắn lát khô đạt 511,67 nghìn tấn, trị giá 96,47 triệu USD, tăng 84,9% về lượng và tăng 36,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024.
Sắn lát khô được xuất khẩu chủ yếu sang thị trường như Trung Quốc và Malaysia.
Về giá xuất khẩu:
Giá xuất khẩu bình quân sắn lát khô trong tháng 4/2025 ở mức 185,6 USD/tấn, giảm 26,8% so với tháng 4/2024.
Nhìn chung, giá xuất khẩu bình quân sắn lát khô sang các thị trường đều giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2024.
Lũy kế 4 tháng đầu năm 2025, giá xuất khẩu bình quân sắn lát khô ở mức 188,5 USD/tấn, giảm 26,4% so với cùng kỳ năm 2024.
- Về thị trường xuất khẩu:
Tháng 4/2025, sắn lát khô được xuất khẩu duy nhất sang thị Trung Quốc. Trong tháng 4/2025, Việt Nam xuất khẩu được 136,28 nghìn tấn sắn lát khô sang Trung Quốc, trị giá 25,96 triệu USD, tăng 158% về lượng và tăng 87,9% về trị giá so với tháng 4/2024.
Lũy kế 4 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu sắn lát khô sang Trung Quốc đạt 511,62 nghìn tấn, trị giá 96,45 triệu USD, tăng 88,3% về lượng và tăng 39,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024.
Xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm 99,99% tổng lượng sắn lát khô xuất khẩu của cả nước trong 4 tháng đầu năm 2025.
Qua số liệu cho thấy, sắn lát khô của Việt Nam phụ thuộc gần như hoàn toàn vào thị trường Trung Quốc, dẫn đến tiềm ẩn nhiều rủi ro nếu nước này thay đổi chính sách nhập khẩu hoặc siết chặt kiểm tra hóa chất/hàng rào kỹ thuật.
Nhìn chung, trong 4 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu sắn lát khô và tinh bột sắn của Việt Nam đều ghi nhận tăng trưởng mạnh về sản lượng, nhưng vẫn chịu áp lực lớn từ giá giảm sâu và sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc.
Để phát triển bền vững, ngàng sắn của Việt Nam cần đẩy mạnh đa dạng hóa thị trường và nâng cao chuỗi giá trị sản phẩm (sấy khô, tinh chế, sản phẩm công nghiệp/tinh bột biến tính...) để ổn định kim ngạch trong dài hạn.
Tây Ninh duy trì vai trò quan trọng trong hoạt động xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn của cả nước. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, tháng 4/2025, trị giá xuất khẩu sắn và các sản phẩm sắn của các doanh nghiệp tỉnh Tây Ninh đạt 31,08 triệu USD, giảm 37,4% so với tháng 3/2025, nhưng tăng 95,9% so với tháng 4/2024, chiếm 52,56% trong tổng trị giá xuất khẩu sắn và các sản phẩm sắn của vùng Đông Nam Bộ và chiếm 27,54% trong tổng trị giá xuất khẩu sắn và các sản phẩm sắn của cả nước trong tháng 4/2025, cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2024.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2025, trị giá xuất khẩu xuất khẩu sắn và các sản phẩm sắn của các doanh nghiệp tỉnh Tây Ninh đạt 170,41 triệu USD, tăng 12,7% so với cùng kỳ năm 2024. Xuất khẩu sắn và các sản phẩm sắn của tỉnh Tây Ninh chiếm 58,7% trong tổng trị giá xuất khẩu sắn và các sản phẩm sắn của vùng Đông Nam Bộ và chiếm 35,08% trong tổng trị giá xuất khẩu sắn và các sản phẩm sắn của cả nước trong 4 tháng đầu năm 2025.
Thị trường xuất khẩu
Trong tháng 4/2025, sắn và các sản phẩm từ sắn của tỉnh Tây Ninh được xuất khẩu sang 22 thị trường trên thế giới. Trong đó, Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn lớn nhất của tỉnh Tây Ninh, chiếm 94,19% tổng trị giá xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn của tỉnh Tây Ninh với 29,28 triệu USD, giảm 36% so với tháng 3/2025, nhưng tăng tới 120,5% so với tháng 4/2024. Luỹ kế 4 tháng đầu năm 2025, trị giá xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn của Tây Ninh sang Trung Quốc đạt 158,95 triệu USD, tăng 16,4% so với cùng kỳ năm 2024.
Đứng thứ hai là thị trường Philipine, chiếm 0,89% tổng trị giá xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn của tỉnh Tây Ninh, với trên 277,84 nghìn USD, giảm 77,3% so với tháng 3/2025 và giảm 72,4% so với tháng 4/2024; Luỹ kế 4 tháng đầu năm 2025, trị giá xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn của Tây Ninh sang thị trường Philipine đạt 2,59 triệu USD, giảm 10,2% so với cùng kỳ năm 2024.
Qua số liệu thống kê cho thấy, trong 4 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn của Tây Ninh sang các thị trường phần lớn đều tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2024, trong đó đáng chú ý như: Trung Quốc, Hà Lan, Mỹ, Singapore, Algeria, Pháp, Hàn Quốc, Bangladet, Malaysia, Anh, Latvia...
Tuy nhiên, trừ Trung Quốc, các thị trường còn lại chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng trị giá xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn của tỉnh Tây Ninh. Trong khi đó, xuất khẩu sang một số thị trường có xu hướng giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2024 như: Philipine, Đài Loan, Tây Ban Nha, Australia, Bỉ, Hy Lạp, Indonesia… điều này có thể phản ánh những thách thức trong việc duy trì và mở rộng thị trường ngoài Trung Quốc.
Xuất khẩu sắn của các doanh nghiệp tỉnh Tây Ninh đang phụ thuộc lớn vào thị trường Trung Quốc, nơi vẫn duy trì đà tăng trưởng tốt và chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị xuất khẩu. Tuy nhiên, sự sụt giảm tại các thị trường nhỏ hơn cho thấy các doanh nghiệp tỉnh Tây Ninh cần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tăng cường khai thác và phát triển các thị trường tiềm năng khác để giảm rủi ro phụ thuộc quá nhiều vào một thị trường duy nhất. Việc mở rộng mạng lưới xuất khẩu sang các nước có nhu cầu sắn và sản phẩm sắn đang tăng cao sẽ góp phần nâng cao tính bền vững và ổn định cho ngành hàng này.
Trong những tháng đầu năm 2025, hoạt động xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn của Việt Nam ghi nhận mức phục hồi tích cực về sản lượng, đặc biệt tại các thị trường chủ lực như Trung Quốc.
Đồng thời, nhiều tín hiệu khả quan đã xuất hiện tại các thị trường tiềm năng như Nhật Bản, Malaysia và Philippines. Nhờ nhu cầu gia tăng từ các nước nhập khẩu cùng nguồn cung nội địa ổn định, lượng xuất khẩu đã tăng trưởng ấn tượng, phản ánh xu hướng phục hồi mạnh mẽ của ngành.
Triển vọng xuất khẩu sắn và sản phẩm từ sắn trong thời gian tới tiếp tục lạc quan. Chiến lược duy trì và mở rộng thị trường, kết hợp với việc nâng cao giá trị gia tăng thông qua chế biến sâu, được xem là hướng đi bền vững cho ngành sắn Việt Nam. Hiện tại, Việt Nam đang tích cực đa dạng hóa thị trường, hướng tới các khu vực có tiềm năng như EU, Nhật Bản, Hàn Quốc và Mỹ. Tuy nhiên, việc thâm nhập sâu vào các thị trường này đòi hỏi thời gian, cũng như những chiến lược phù hợp về chất lượng, tiêu chuẩn và tiếp thị.
Việc đẩy mạnh chế biến sâu, sản xuất các sản phẩm như tinh bột sắn, ethanol và bột ngọt, sẽ giúp nâng cao giá trị xuất khẩu, đồng thời giảm thiểu sự phụ thuộc vào xuất khẩu nguyên liệu thô. Đây là xu hướng tất yếu trong bối cảnh yêu cầu về chất lượng sản phẩm và tiêu chuẩn nhập khẩu ngày càng khắt khe.
Trong năm 2025, nhu cầu sắn toàn cầu tiếp tục được dẫn dắt bởi các thị trường lớn, nổi bật là Trung Quốc - hiện vẫn là quốc gia nhập khẩu sắn lớn nhất thế giới. Trong bối cảnh giá sắn toàn cầu giảm, Trung Quốc đã gia tăng mạnh lượng nhập khẩu từ Việt Nam, Thái Lan và Campuchia. Đây là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu sắn của Việt Nam, song cũng đi kèm với thách thức về biến động giá cả và tiêu chuẩn chất lượng ngày càng cao.
Dự báo trong thời gian tới, nhu cầu sắn và tinh bột sắn vẫn duy trì ở mức cao, đặc biệt trong các ngành công nghiệp như thức ăn chăn nuôi, thực phẩm và sản xuất ethanol sinh học, những lĩnh vực sử dụng lượng lớn nguyên liệu từ sắn.
Theo báo cáo từ ResearchAndMarkets.com, quy mô thị trường chế biến sắn toàn cầu được ước tính đạt 324,4 triệu tấn trong năm 2024 và sẽ tăng lên 365,8 triệu tấn vào năm 2033, tương ứng với tốc độ tăng trưởng trung bình (CAGR) 1,3%/năm giai đoạn 2025 - 2033.
Sự tăng trưởng này được thúc đẩy bởi nhiều yếu tố: xu hướng tiêu dùng thực phẩm không chứa gluten, sự mở rộng ứng dụng công nghiệp của sắn, hỗ trợ chính sách từ chính phủ, tăng dân số, đổi mới sản phẩm chế biến, cũng như yêu cầu về chuỗi cung ứng thực phẩm bền vững.
Ngoài ra, việc sắn được sử dụng ngày càng rộng rãi trong sản xuất nhiên liệu sinh học, nhựa phân hủy sinh học và thức ăn chăn nuôi cũng góp phần mở rộng thị trường tiêu thụ. Tại châu Phi và châu Á, chính sách hỗ trợ và đầu tư từ chính phủ vào chuỗi giá trị sắn đang đóng vai trò thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp này, thông qua khuyến khích canh tác bền vững và nâng cấp hạ tầng chế biến, phân phối.

Tác giả: quản trị

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây